NÉT XUÂN TRÊN QUÊ HƯƠNG PHONG ĐIỀN
Ngày trở về quê mẹ Phong Điền sau bao năm xa cách, nơi mảnh đất đã in dấu chân tuổi thơ của...
*Giới thiệu:
Phong Điền là vùng đất của Thừa Thiên- Huế mang đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc Việt, từ công cuộc Nam tiến mở rộng bờ cõi về phương Nam cho đến quá trình xây dựng, phát triển và chống ngoại xâm ròng rã ngót bảy trăm năm. Vùng đất thiêng này đã để lại vô số những di sản văn hóa cả về vật thể lẫn phi vật thể, mà lớp hậu sinh cần phải trân trọng bảo tồn và gìn giữ, không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả các thế hệ mai sau.
Giữ gìn và phát huy những giá trị di sản văn hóa ấy, không những là để giáo dục truyền thống cho người dân, đặc biệt cho thế hệ trẻ, mà song song với mục tiêu ấy là phát triển kinh tế : là quảng bá, là phục vụ du lịch. Nghị quyết chuyên đề về phát triển văn hóa của lãnh đạo huyện Phong Điền đã xác định rõ điều đó (cụ thể trong bài viết của ông Hồ Bê, bí thư huyện ủy đã đăng trong website này).
Riêng về mảng văn hóa phi vật thể, ngoài những làng nghề truyền thống nổi tiếng đã đi vào lịch sử, các hoạt động lễ hội và nghệ thuật dân gian ở các địa phương trên địa bàn cũng được lãnh đạo huyện đặc biệt quan tâm chỉ đạo khảo sát, điều tra, nghiên cứu và phục dựng. Một trong những loại hình nghệ thuật dân gian là “MÚA”, chẳng hạn như múa Bông, múa Tứ dật, múa Phương tướng ở làng Phò Trạch, đặc biệt là “múa Gươm” ở làng Kế Môn, đã tồn tại hằng trăm năm cùng với lịch sử hình thành và phát triển của làng.
Điều đáng tiếc là loại hình “múa Gươm” ở làng Kế Môn, lại được hiểu là “múa Náp”, trùng với tên gọi của điệu múa ở làng Tân Mỹ, xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền và điệu múa cầu ngư ở làng biển Mỹ Tân (tỉnh Ninh Thuận). Trong khi xét về nhiều mặt, từ lịch sử hình thành, đến đội hình, phục trang, đến vũ đạo và mục đích của hai điệu múa này, so với “múa Gươm “ của làng Kế Môn đều có sự khác biệt.
Website donghuongphongdien.com xin giới thiệu bài viết sau đây với tựa đề “VỀ MỘT TÊN GỌI” của tác giả Hoàng Dục (là con dân của làng Kế Môn, đồng thời cũng là đại diện cho giới am hiểu và sâu sát văn hóa của bản làng), như một tài liệu để ngành chức năng về thông tin văn hóa huyện tham khảo, với mong muốn và hy vọng điệu “múa Gươm” ở làng Kế Môn phải được trả lại tên đúng với bản chất riêng và độc đáo của nó. Điệu “múa Gươm” ở làng Kế Môn sẽ phải là “di sản văn hóa phi vật thể” của riêng Phong Điền, chứ không phải là của ai khác.
Quảng Điền đã có “múa Náp” làm đặc sản văn hóa, sản phẩm của du lịch của riêng mình. Còn Phong Điền sao lại không là “múa Gươm”?
Ban Biên tập
*Nội dung bài viết :
VỀ MỘT TÊN GỌI
Tác giả: HOÀNG DỤC
1. Lên trang web langkemon.com.vn thấy chạy hàng tít “Đoàn múa náp làng Kế Môn diễn tại làng Phước Tích”. Sau hàng tít là dòng tin : “Ngày 16/8/2011 (17/7 Tân Mão), mặc dầu trùng vào ngày lễ Thu Tế của làng Kế Môn, Ban Văn Hóa làng cũng đã cử đoàn múa Náp của làng tham gia chương trình “Đêm hội văn nghệ Dân gian làng cổ Phước Tích”, tại làng Phước Tích, huyện Phong Điền theo lời mời của Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế”. “Theo yêu cầu của Ban Tổ Chức, làng Kế Môn cử 3 đội múa Náp tham dự chương trình”.
Đọc bản tin, trong tôi dậy lên bao câu hỏi : múa Náp là gì? Ở làng Kế Môn có điệu múa Náp sao? Nhưng đọc kĩ và xem hình ảnh kèm theo, hóa ra đây là “Múa gươm” (người dân thường gọi tên bằng phương ngữ : “Lộn gươm”), một hình thức nghi lễ văn hóa dân gian của làng vốn có từ xa xưa. Nhưng tại sao lại có hiện tượng trái khoáy thế này ? “Múa Gươm” trở thành “múa Náp” ! Ai đã đặt (đúng hơn là cải tên) cho điệu múa của làng, một điệu múa đã đi vào tâm thức của người Kế Môn bao đời nay, đã trở thành nét đẹp văn hóa tinh thần mà dân làng mãi gìn giữ và phát huy, bằng một cái tên xa lạ như vậy ? Và tôi bỗng đâm ra hoài nghi chính mình : cái biết của mình ít ỏi, trong khi đó tri thức nhân loại thì vô cùng, làm sao đem cái hữu hạn của trí tuệ mình mà đong hết, chứa hết cái vô cùng ấy ! Biết đâu đó, điệu múa Gươm ở làng Kế Môn còn có tên gọi là múa Náp ?
Dù tự nhủ như thế nhưng trong tôi vẫn không hết băn khoăn. Tôi vội lật tìm trong “Từ điển Văn hóa Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, trong tất cả các điệu múa cung đình và múa dân gian, không có mục từ múa Náp. Vậy là phải nhờ trợ thủ thân thiện Google, hóa ra có điệu múa Náp thật. Trang tìm kiếm hiện ra rất nhiều bài viết, phần lớn quảng bá điệu múa Náp của làng Tân Mỹ, xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Có thể kể một số bài tiêu biểu :
-“Múa náp, đặc sắc văn hóa Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế” (không có tên tác giả), trang Tin tức du lịch, 1/2011;
-“Sống lại điệu múa Náp” của Đoàn Vũ, báo Tin Tức, 4/2011;
-“Múa náp hồi sinh sau gần thế kỉ” của Minh Ngọc, báo Lao Động điện tử, 1/2011;
-“Khôi phục điệu múa Náp truyền thống” (không có tên tác giả), báo Việt Nam nay, 10/2011,…
Riêng múa Náp ở làng biển Mỹ Tân, thuộc xã Thanh Hải, nằm cách thành phố Phan Rang–Tháp Chàm khoảng 20 cây số về hướng Đông – Bắc có 2 bài trong đó có :
- “Đặc sắc múa Náp” của Thái Sơn Ngọc đăng trên – Báo Ninh Thuận,7/2011.
2. Qua những bài viết về múa Náp ở Tân Mỹ, Quảng Ngạn, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế; ở làng Mỹ Tân, Ninh Thuận, tôi thử làm phép đối sánh từ tên gọi đến lịch sử, từ trang phục đến đạo cụ, từ vũ điệu đến mục đích và ý nghĩa,… với cái gọi là múa Náp ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế (mà tôi biết), mong giải quyết thỏa đáng về tên gọi cho điệu múa truyền thống lâu đời của làng Kế Môn. Chỉ cần thao tác so sánh đơn giản cũng thấy múa Náp của ba vùng đất có nét giống nhau nhưng cũng rất nhiều điểm khác biệt.
Làng/Mục
|
KẾ MÔN
(TT – Huế)
|
TÂN MỸ
(TT- Huế)
|
MỸ TÂN
(Phan Rang)
|
Ra đời
|
Thế kỉ XV (nông nghiệp, khi lập làng, mỗi tộc họ có một đội múa).
|
Thế kỉ XIX (ngư nghiệp, đời Gia Long, cả làng chỉ một đội múa).
|
Thế kỉ XVII (ngư nghiệp, khi lập làng, cả làng chỉ một đội múa).
|
Số người
|
11, tráng đinh, gồm 1 ông cai và 10 vũ sinh
|
20, thiếu niên (10-15 tuổi), chia làm 5 nhóm, mỗi nhóm bốn người.
|
8-10, thanh niên, gồm 1 ông cai, còn lại là vũ sinh.
|
Trang phục
|
Khăn đóng, áo dài xanh, đen; quần trắng, thắt lưng vàng, đỏ, giày trắng.
|
Chít khăn cùng màu với áo quần, áo quần đồng màu gồm các nhóm màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây, hồng.
|
Người múa náp đầu chít khăn, mặc quần áo rộng, lưng cuốn đai, chân cuốn xà cạp đi giày vải bó như những đội thủy binh thời xưa.
|
Vũ đạo
|
Lên một xuống hai, tam xà, tứ trụ, gài lồng mốt…
|
Tam xà, tứ trụ, vô búp (búp sen), ra nở (sen nở), đi vòng số 8.
|
Bái tổ, ba thoi, đá đầu, đánh cán, đánh lưỡi, nhảy ngựa, tạ hàng ngang, tạ hàng xuôi, sắp mặt, ra lưng, nhảy trái…
|
Mục đích
|
Múa chủ yếu trong các lễ tang của những người trong dòng tộc.
|
Gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến và lễ cầu ngư.
|
Cúng đình, cúng lăng Ông Nam Hải.
|
Bảng so sánh đã cho ta cái nhìn tương đối về điệu múa của ba vùng đất. Nhưng dù tương đối, ta vẫn có thể thấy được, giữa điệu múa làng Kế Môn và Mỹ Tân (Phan Rang) rất khác biệt, tại sao lại có cùng tên múa Náp?
Điều đáng chú ý là điệu múa của làng Kế Môn với làng Tân Mỹ. Bởi cả hai về vũ đạo có chỗ giống nhau và mục đích ý nghĩa cũng vậy. Nếu cho rằng điểm giống nhau đó bắt nguồn từ không gian định cư thì cũng có cái lí của nó. Cả hai làng dẫu khác huyện, một bên là Phong Điền, một bên là Quảng Điền, nhưng đều thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Hơn nữa cả hai đều nằm trên trục đất cát trắng phía Bắc cửa biển Thuận An, nên có sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau.
Đấy là xét từ không gian sinh sống, còn xét về không gian văn hóa lại khác. Từ góc nhìn không gian văn hóa ta thấy sự sinh thành và phát triển múa Náp của Kế Môn và Tân Mỹ khá xa lạ. Tân Mỹ và Mỹ Tân là không gian biển, người dân ở hai miền này đều sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản; riêng Kế Môn là một làng thuần nông. Từ không gian cộng đồng, từ hai nền văn hóa khác nhau, văn hóa lúa nước và văn hóa biển, làm sao có điệu múa giống nhau. Nếu giống, có chăng chỉ Tân Mỹ và Mỹ Tân, còn Kế Môn thì hẳn là khác biệt, cho nên điệu múa nghi lễ văn hóa của Kế Môn được gọi tên múa Náp là không ổn. Ở đây, cũng xin nói, nếu dựa vào quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa thì cũng không thể lí giải ổn thỏa được. Bởi vấn đề đặt ra là điệu múa làng nào chịu ảnh hưởng của làng nào ?
Để giải thích có lẽ nên nhìn hai điệu múa của hai làng Kế Môn và Tân Mỹ từ điểm nhìn thời gian lịch sử chẳng ? Nhìn từ góc độ thời gian làng Kế Môn hình thành từ thế kỉ thứ XV, điệu múa gươm của làng ra đời từ cái mốc lịch sử ấy nên cũng có bề dày truyền thống hơn 5 thế kỉ. Trong khi đó, điệu múa Náp của làng Tân Mỹ, huyện Quảng Điền, căn cứ bài viết của hai tác giả Đoàn Vũ và Minh Ngọc thì :
“Vào đời vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Quảng Ngạn giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến. Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền, do những người tuổi cao, sức yếu, không truyền lại cho con cháu. Nhận thấy điệu múa náp có nguy cơ biến mất hẳn, từ năm 1994, các ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ đã thu thập, biên soạn để phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản”.
Qua đoạn văn có thể thấy, trước khi vua Gia Long khuyên, điệu múa ấy chỉ là “một đám đông tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt”, sau đó “dân làng mới duy trì điệu múa”, “giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỉ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến” hay “giữ gìn điệu múa này như một “báu vật” của quê hương”. Chỉ đến khi vua Gia Long khuyên, điệu múa Náp của làng biển Tân Mỹ mới chính thức ra đời vào thế kỉ XIX như là một nghi lễ văn hóa dân gian. Nhưng rồi “Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền”, tức là gần hết thế kỉ XX. Năm 1994, sau khi tập luyện để biểu diễn trong lễ khánh thánh đình làng “đội múa lại tan rã”.
Điều băn khoăn là: một điệu múa truyền thống đặc sắc được người dân “Quảng Ngạn giữ gìn”, đã trở thành “điệu múa dân gian truyền thống”, là một “báu vật” quê hương, thậm chí “điệu múa này đã gắn bó với đời sống văn hóa tâm linh của người dân” tại sao lại có hiện tượng đứt đoạn gần 100 năm? Ngay cả khi khôi phục vẫn tan rã?
Từ hoài nghi này, ta có thể thấy chỗ không thuyết phục về lịch sử hình thành điệu múa Náp của làng Tân Mỹ như các bài báo đã viết. Và cũng từ đó cho ta một kết luận sơ bộ : dù vũ đạo có giống nhau, nhưng đó là giống nhau do sự tiếp biến, còn tên gọi không thể là một. Múa Náp phải chăng chỉ là điệu múa của Tân Mỹ và Mỹ Tân, điệu múa của cư dân miền biển trong lễ cầu ngư. Còn điệu múa của làng Kế Môn thì không thể gọi tên như vậy được.
Điều băn khoăn nữa là về cái tên múa Náp. Tại sao có tên múa Náp ? Náp là gì ? Lần theo bài viết của Đoàn Vũ, tôi bắt gặp câu : “Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm, được cất giữ tại các họ tộc”, và theo Minh Ngọc : “Các ông Đa, Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm được cất giữ tại các gia phả họ tộc trong làng”. Chính hai câu văn này đã cho tôi một cơ sở để tìm hiểu khái niệm Náp là gì. Lật giở những từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, của Nguyễn Văn Khôn có trong tủ sách gia đình vẫn không thấy từ “Náp”, tranh thủ giờ nghỉ tìm những từ điển khác ở Thư viện Đại học Duy Tân vẫn không. Hay “Náp” là từ Nôm ? Tôi thử tìm trong “Bảng tra chữ Nôm” của Viện Văn học (1976) cũng chẳng có từ Náp nào !
Không có từ Náp, nghĩa là không thể gọi tên sự vật, từ đó cũng khó hình dung được bản chất của sự vật hiện tượng đó là gì ? Hay từ Náp là phương ngữ ? May thay, bài viết của Thái Sơn Ngọc trên báo Ninh Thuận cho tôi một cái nhìn. Đọc câu : “Chiếc náp dài khoảng 100 cm, phần lưỡi dài khoảng 40 cm, hình thức như một thanh đao” mới thấy, người dân Mỹ Tân lấy tên đạo cụ – cái náp để gọi tên điệu múa của họ.
Điều này hoàn toàn hợp với cách gọi tên các điệu múa dân gian của người Việt. Phổ biến nhất là lấy đạo cụ đặt tên điệu múa. Có thể kể một số điệu múa được đặt tên theo cách ấy. Múa Bã Trạo, tức là mùa chèo thuyền, đạo cụ là mái chèo; múa Bồng ở hội Láng, ở hội Triều Khúc, Bắc Bộ Việt Nam, đạo cụ là chiếc trống bồng đeo trước bụng người múa; múa Đọa pụ, tức là Đội nước của người Chăm, mô phỏng động tác, hình dáng của cô gái Chăm đi lấy nước về nhà, họ đội mỗi cô một bình nước trên đầu; múa chạy Gậy ở Đông Sơn, Thanh Hóa, khi tham gia múa, mỗi trai đinh vác một cây gậy bằng tre dài 1, 5m quấn giấy xanh đỏ; múa Chạy cày ở Đan Từ và Nghĩa Lập, tỉnh Vĩnh Phú mô phỏng công việc cày bừa nặng nhọc trong sinh hoạt mùa vụ, mỗi người tham gia múa cầm một cái bắp cày; múa Lân đạo cụ là con lân, múa Rồng đạo cụ là con rồng;…
Từ tập quán gọi tên các điệu múa dân gian nêu trên có thể nói rằng, gọi điệu múa dân gian của làng Kế Môn là múa Náp là không hợp lí, bởi đạo cụ là gươm : “Gươm gồm một bộ 10 cái, đó là bộ tế khí thường thờ trong từ đường của từng tộc. Gươm bằng gỗ, dài khoảng 1,5 mét, hình dáng là một cây gươm đang tra trong vỏ, chia làm hai phần: phần cán ngắn và phần vỏ dài, sơn son thếp vàng”. Bộ gươm là bộ tự khí thờ trong các từ đường họ tộc. Tất cả các họ : Bùi Viết, Phan, Đặng Hữu, Nguyễn Thanh, Lê Cảnh, Trần Đăng, Trần Văn, Trần Duy, Hoàng Ngọc, Hồ Tá,… họ nào cũng có một đội gươm múa trong tang lễ của người trong tộc họ; chứ không phải chỉ một đội của làng như ở Tân Mỹ và Mỹ Tân. Và điệu múa của làng Tân Mỹ, theo cách gọi tên dân gian, phải là múa Gậy hay múa Đèn như em Nguyễn Thị Nhung, một sinh viên xem biểu diễn điệu múa này đã gọi tên.
Nói tóm lại, qua những gì đã trình bày, có thể nói rằng, gọi điệu múa nghi lễ truyền thống lâu đời của làng Kế Môn bằng cái tên múa Náp là hoàn toàn khiên cưỡng, không có lí lẽ thuyết phục. Múa Gươm là tên gọi duy nhất đúng và chỉ với tên gọi ấy mới có thể chỉ ra được bản chất, cái hồn, vẻ đẹp nghệ thuật, văn hóa của vũ điệu, thể hiện trọn vẹn mục đích ý nghĩa của nó. Và chỉ có tên gọi “Múa Gươm” mới thỏa mãn được nhu cầu tâm lí, tình cảm của người dân Kế Môn bao đời về một điệu múa đậm sắc văn hóa quê hương họ.
Trên đây là thiển ý có phần chủ quan của tôi, chắc hẳn vẫn còn nhiều điều bàn bạc. Người viết chỉ mong được đồng cảm và sẻ chia về nét đẹp văn hóa của làng quê yêu thương và tự hào của mình mà thôi.
Múa Gươm ở làng Kế Môn - Phong Điền
-----------------------------------------------
PHỤ LỤC:
1-SỐNG LẠI ĐIỆU MÚA NÁP (Đoàn Vũ)
Ngày trước, điệu múa náp đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu ở các lễ hội cầu ngư, ma chay ở vùng biển. Sau gần 100 năm thất truyền, múa náp đã được người dân vùng biển ở thôn Tân Mỹ (xã Quảng Ngạn, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế) phục hồi nguyên bản với những nét đặc trưng truyền thống. Điệu múa náp đang hồi sinh.
Vào đời vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, động tác uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Quảng Ngạn giữ gìn điệu múa này, gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này sẽ đến chia sẻ buồn vui cùng gia quyến.
Gần một thế kỷ qua, điệu múa náp đã bị thất truyền, do những người tuổi cao, sức yếu, không truyền lại cho con cháu. Nhận thấy điệu múa náp có nguy cơ biến mất hẳn, từ năm 1994, các ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ đã thu thập, biên soạn để phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản.
Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm, được cất giữ tại các họ tộc. Riêng ông Phan Đăng Khoa vừa thủ vai ông cai, vừa làm “ông bầu” của 2 đội múa náp thanh niên và thiếu niên. Ông Khoa tổ chức đội múa náp có 20 người, chia làm 5 nhóm. Họ mặc trang phục màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây… và đạo cụ là đèn, gậy.
Mỗi lần trình diễn điệu múa náp diễn ra khoảng 30 phút, gồm các tiết mục múa là Tam xà, Tứ trụ, Vô búp sen, Sen nở… Đội múa đa số là các em thiếu nhi, là những hạt nhân gìn giữ điệu múa náp trong tương lai của làng.
Đến nay, múa náp ở Tân Mỹ không những được sống lại sau gần một thế kỷ vắng bóng, mà còn được đưa vào khai thác trong dự án “Du lịch cộng đồng” của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội và tour du lịch khám phá “Tam Giang huyền thoại”.
2-GIỮ HỒN ĐIỆU MÚA CỔ (Minh Ngọc)
Tương truyền vào đời Vua Gia Long (1802-1820), trong một lần du thuyền ngược về khu vực cửa biển Thuận An, nhà vua thấy trên bờ biển có một đám đông đang tụ tập nhảy múa, có kết hợp một số cử chỉ uốn lượn rất lạ mắt. Thấy lạ, vua dừng thuyền đến xem và được biết đó là điệu múa náp của ngư dân Quảng Ngạn. Thấy điệu múa hay, vua khuyên dân làng nên duy trì điệu múa này. Từ đó, người dân Tân Mỹ giữ gìn điệu múa này như một “báu vật” của quê hương. Gia đình nào có việc hiếu hỷ, đội múa này đến – vừa chia sẻ nỗi buồn cùng gia quyến, đồng thời nhảy múa để xua đuổi ma quỷ giúp linh hồn người chết được siêu thoát.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các làn điệu múa náp dần dần mai một. Những thế hệ biết nhảy náp bài bản nhiều người giờ đã quy tiên. Người còn sống do tuổi cao, sức yếu, khó có thể chỉ vẽ cho con cháu điệu múa truyền thống của làng. Ông Trần Đình – một người dân ở thôn Tân Mỹ – tâm sự: “Lúc còn nhỏ, đứa mô trong làng được chọn đi múa náp là oai lắm. Hồi nớ không có đồng phục đẹp như bây chừ, toàn đi chân đất, đời ông cha tui chừ ri là hết nhảy náp được rồi, chỉ mong con cháu sau này gìn giữ vũ điệu của tổ tiên truyền lại”.
Nhận thấy “báu vật tâm linh” có nguy cơ biến mất, từ năm 1994, ông Phan Đăng Khoa, Trần Đình, Trần Đa… và ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ – đã tiến hành thu thập, biên soạn “ giáo án” phục dựng các điệu múa náp đúng với nguyên bản. Mỗi người một việc. Các ông Trần Đa, Trần Đình thu thập tài liệu về múa náp từ các bản dịch chữ Hán – Nôm được cất giữ tại các gia phả họ tộc trong làng. Riêng ông Khoa chịu trách nhiệm vừa thủ vai ông cai vừa là “bầu sô” của 2 đội múa náp thanh niên và thiếu niên. Theo lời ông Khoa, đội múa náp thường có 20 người, chia làm 5 nhóm, trang phục màu đỏ, vàng, xanh nước biển, xanh lá cây, hồng. Với đạo cụ là đèn hoặc gậy, điệu múa náp diễn ra từ 25-30 phút.
Một sản phẩm du lịch độc đáo.
Trước đây, điệu múa náp vốn chỉ có các màn: Tam xà, tứ trụ, vô búp (búp sen), ra nở (sen nở), đi vòng số 8 với số lượng từ 20-24 người tham gia. Để điệu múa sinh động hơn, những người trong Ban biên soạn múa náp làng Tân Mỹ cải biên thêm vào một số động tác như: Tứ trụ sen, đi hàng một hàng hai và hàng chéo… Điều đặc biệt là lớp thiếu niên rất thích múa náp – nhất là những dịp có lễ hội cầu ngư và dịp tết cổ truyền. “Khi bắt tay khôi phục điệu múa náp truyền thống, chúng tôi rất chú trọng đến các em nhỏ, đây chính là những hạt nhân múa náp trong tương lai của làng Tân Mỹ” – ông Khoa nói.
Bây giờ, múa náp ở Tân Mỹ không những được sống lại sau gần một thế kỷ vắng bóng, mà còn được đưa vào khai thác du lịch. Mới đây, Cty TNHH du lịch An Thạnh kết hợp dự án du lịch cộng đồng do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội đã đưa điệu múa náp của làng Tân Mỹ vào tour du lịch khám phá “Tam Giang huyền thoại”.
Từ ngày múa náp vào tour, cuộc sống của người dân Tân Mỹ sôi động hẳn lên. Khắp các khoảnh đất nhỏ có mái che – vốn là nơi sinh hoạt của thôn – được trưng dụng làm nơi biểu diễn. Khi chúng tôi đến Tân Mỹ, cũng là lúc đội múa náp chuẩn bị đón khách du lịch. “Dù đã nhiều lần đón khách, nhưng tụi em vẫn thấy hồi hộp như lần đầu” – Dũng – một thành viên đội múa – tâm sự. Khách đến, cả đội hàng ngũ chỉnh tề rồi say sưa trong các điệu múa. Trên nền tiếng trống, khèn lúc rộn rã, khi réo rắt, những bước di chuyển tam xà, tứ trụ, tam lang, tứ lang, vô búp, ra nở… của các em làm khách trầm trồ thán phục.
Tiếng lành đồn xa, nhiều người dân Tân Mỹ lập nghiệp trên thành phố – thậm chí có người ở tận trong Nam, ngoài Bắc – mỗi khi gia đình có việc ma chay, họ thuê đội múa náp thanh niên đến để múa náp trước linh cữu người quá cố. Nhiều “Mạnh Thường Quân” kiều bào ở nước ngoài là con em Tân Mỹ thấy việc khôi phục điệu múa cổ rất ý nghĩa đã gửi tiền về tài trợ trang phục, đạo cụ biểu diễn. Ông Lê Minh – Trưởng thôn Tân Mỹ – cho biết, năm nào huyện Quảng Điền tổ chức liên hoan văn nghệ, đội múa náp Tân Mỹ cũng tham gia.
Múa Náp ở làng Tân Mỹ, Quảng Điền
3. ĐẶC SẮC MÚA NÁP (Thái Sơn Ngọc - NTO)
Cùng với hò bả trạo, hát giao duyên thì múa náp là loại hình văn hóa dân gian mang tinh thần thượng võ có giá trị bền vững trong đời sống cư dân làng biển.
Múa náp là một trong những loại hình văn hóa dân gian đặc sắc của cư dân miền biển tỉnh ta. Trải qua hơn ba trăm năm khai hoang lập ấp, múa náp đã đồng hành với đời sống tinh thần của ngư dân Mỹ Tân. Mỗi đường siêu, thế võ trong múa náp thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của cha ông thời mở cõi, nhằm bảo vệ cuộc sống thôn xóm bình yên.
Nằm cách Tp. Phan Rang- Tháp Chàm khoảng 20 cây số về hướng Đông-Bắc, làng biển Mỹ Tân thuộc xã Thanh Hải, nổi tiếng với nghề đánh cá phát triển thịnh vượng vào bậc nhất của huyện Ninh Hải. Cảng Mỹ Tân tấp nập tàu thuyền trong và ngoài tỉnh đến neo đậu mua bán hải sản và tiếp tế nhiên liệu. Mỹ Tân còn bảo tồn nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của làng biển Nam Trung Bộ.
Tương truyền cư dân Mỹ Tân ngày nay có nguồn gốc từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đến sinh cơ lập nghiệp từ hơn 300 năm trước. Cùng với việc di dân, cha ông mang theo phong tục, tập quán đến vùng đất mới lưu truyền cho con cháu. Những người thuở khai hoang mở cõi được dân làng tôn làm thần hoàng bổn cảnh thờ phụng tại đình làng. Cùng với hát hò bả trạo, hát giao duyên thì múa náp là loại hình văn hóa dân gian mang tinh thần thượng võ có giá trị bền vững trong đời sống cư dân làng biển.
Ông Phạm Ngọc Huề, năm nay 93 tuổi là bậc kỳ cựu ở Mỹ Tân. Ông được mời làm “cố vấn” của làng trong các kỳ lễ hội, cúng tế. Ông Huề cho biết, từ khi ông còn nhỏ đã thấy trong làng có múa náp. Các kỳ cúng đình, cúng lăng Ông Nam Hải đều có múa náp. Đội múa náp thường có từ 8 đến 10 người được tuyển chọn từ các trai đinh có đạo đức, sức khỏe tốt. Ông thủ chỉ hướng dẫn trai đinh rèn luyện việc múa náp theo đúng bài bản.
Đội múa chia làm hai hàng chịu sự chỉ huy của đội trưởng theo tiếng gõ ra hiệu cặp sênh được làm bằng gỗ dài chừng 30 cm. Người múa náp đầu chít khăn, mặc quần áo rộng, lưng cuốn đai, chân cuốn xà cạp đi giày vải bó như những đội thủy binh thời xưa. Chiếc náp dài khoảng 100 cm, phần lưỡi dài khoảng 40 cm, hình thức như một thanh đao. Người học múa náp phải mất 3-5 tháng chuyên tâm rèn luyện mới có thể thành thạo thế đánh. Các bài múa náp được truyền dạy với tên gọi dân dã cho dễ nhớ: Bái tổ, ba thoi, đá đầu, đánh cán, đánh lưỡi, nhảy ngựa, tạ hàng ngang, tạ hàng xuôi, sắp mặt, sắp lưng, ra lưng, nhảy trái…
Sáng ngày 23-7, tại thôn Mỹ Tân, chúng tôi được chứng kiến buổi tổng dượt lễ cúng nghinh Ông Nam Hải và biểu diễn múa náp. Đây là hoạt động thiết thực của nhân dân địa phương chuẩn bị tham gia Liên hoan các Làng biển Việt Nam diễn ra tại tỉnh ta vào đầu tháng tám. Sau hồi trống chầu vang vọng thông báo với chư thần và dân chúng lễ hội nghinh Ông Nam Hải, ông Lê Văn Xị, 73 tuổi với vai trò chánh tế mặc lễ phục đứng trước hương án đọc bài vọng Ông Nam Hải. Các ông bồi tế và học trò lễ giúp việc cho chánh lễ thực hiện trình tự các bước cúng tế.
Sau bài tế, tiếng trống chầu vang vọng, anh Nguyễn Hữu Hà, 37 tuổi cầm cặp sênh gõ nhịp chỉ huy đội múa náp “chiếm lĩnh” sân lễ. Múa náp là những thế võ với cách đánh nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát thể hiện sức chiến đấu bền bỉ của cư dân thời khẩn hoang lập ấp. Lực lượng ngư dân trẻ khỏe sẵn sàng chiến đấu chống giặc giã, thú dữ để bảo vệ cuộc sống bình yên cho dân làng.”Chúng tôi rất vui mừng khi được tham gia biểu diễn tại Liên hoan Làng biển Việt Nam năm 2011. Đây là dịp để đội múa náp Mỹ Tân cống hiến cho du khách gần xa nét đẹp văn hóa đặc sắc của người dân làng biển Mỹ Tân. Chúng tôi tiếp tục bảo tồn và truyền dạy các bài múa náp cho thế hệ trẻ thôn Mỹ Tân gìn giữ một loại hình văn hóa đặc trưng của cư dân làng biển Việt Nam”, anh Nguyễn Hữu Hà, phấn khởi nói.
Múa Náp ở làng biển Mỹ Tân, Ninh Thuận
Ngày trở về quê mẹ Phong Điền sau bao năm xa cách, nơi mảnh đất đã in dấu chân tuổi thơ của...
Thằng bé đứng bên bờ cỏ, một tay cầm củ khoai nướng còn nóng hổi, tay kia run run cầm cái “ná”. Ngước nhìn...
Làng Phước Tích thuộc thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Việt Nam. Phước...